RỐI LOẠN NHỊP TIM THAI

RỐI LOẠN NHỊP TIM THAI: KINH NGHIỆM 4 NĂM TẠI VIỆN TIM TP HCM

Lê Kim Tuyến*, Phạm Nguyễn Vinh**, Châu Ngọc Hoa***

*Viện Tim TP HCM, ** Bệnh Viện Tim Tâm Đức ***Bộ Môn Nội, ĐHYD TP Hồ Chí Minh (Liên hệ: Ths.Bs Lê Kim Tuyến, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. Bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó., ĐT: 0902865142).

TÓM TẮT:

Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành xem xét lại kinh nghiệm trong khảo sát và chăm sóc rối loạn nhịp thai nhi dựa vào siêu âm tim thai.

Cơ sở nghiên cứu : Siêu âm tim thai có thể chẩn đoán chính xác các dạng của rối loạn nhịp. Phương thức tiếp cận này cho phép chăm sóc và lựa chọn thuốc chống loạn nhịp được tốt hơn.

Phương pháp nghiên cứu : Mô tả hàng loạt ca, các thai phụ từ 16-40 tuần được gửi đến từ các bệnh viện phụ sản, có chẩn đoán rối loạn nhịp tim thai dựa trên siêu âm tim thai chi tiết.

Kết quả : Từ tháng 01/2008 đến 12/2011 có 39 thai nhi có chẩn đoán rối loạn nhịp/4332 thai nhi được tiến hành siêu âm tim thai chi tiết tại Viện Tim TP HCM. Tỉ lệ ngoại tâm thu nhĩ và ngoại tâm thu thất chiếm đa số - 51%, nhịp nhanh kịch phát trên thất chiếm 14%, nhịp chậm xoang chiếm 8%, block nhĩ thất chiếm 27%.

Kết luận : Rối loạn nhịp chiếm khoảng 1% thai nhi, đa số là lành tính. Phát hiện và điều trị sớm có thể cứu sống thai nhi. Nhịp chậm vẫn còn là 1 thách thức lớn đối với các Bác sĩ tim mạch.

Từ khoá: loạn nhịp tim thai, siêu âm tim thai

 

Fetal arrhythmias: the 4 year’s experience of Heart Institute in HCMC

Objectives: We intend to review our experience with the investigation and management of fetal arrhythmia on the basis fetal echocardiography.

Background: Precise prenatal identification of arrhythmia type can be achieved with the fetal echocardiography approach. Such information allows for a better management and a rational choice of appropriate anti-arrhythmic drug.

Methods: Case series study of the women with gestational age from 16 to 40 weeks sent from obstetrical hospital, who has diagnosis of fetal arrhythmias by detailed fetal echocardiography.

Results: From Jan 2008 to Dec 2011 there were 39 fetus were diagnosis of arrhythmia/ 4332 fetus were conducted detailed fetal echocardiography at Heart Institute in HCMC. The prevalence of premature atrial and ventricular contractions is dominant – 51%, supraventricular tachycardia – 14%,  sinus bradycardia – 8%, atrioventricular block – 27%.

Conclusions: Arrythmia accounts for 1% in fetus, most cases are benign. Early detection and treatment of tachycardia can save the fetus. Bradycardia is still a big challenge for cardiologist.

Keywords: fetal arrhythmia, fetal echocardiography

  1. Đặt vấn đề:

Khỏang 1-3% thai nhi có rối lọan nhịp [13].  Phương pháp theo dõi thai nhi bằng siêu âm và máy ghi nhịp tim thai, cho phép phát hiện rối lọan nhịp và dẫn truyền ở thai nhi. Việc chẩn đóan rối lọan nhịp trong bào thai cần chính xác và đánh giá hậu quả trên huyết động học, để có phương pháp điều trị thích hợp. Rối lọan nhịp nhanh thường gặp trong bào thai, việc sử dụng thuốc chống lọan nhịp có hiệu quả nhất định (thường được dùng qua đường uống). Nhưng với rối lọan nhịp chậm, liên quan đến rối lọan dẫn truyền nhĩ thất cao độ, điều trị vẫn là một thách thức đối với các chuyên gia tim mạch tiền sản; các bác sĩ có nhiệm vụ xác nhận bloc nhĩ thất trước sinh để chăm sóc trẻ chu sinh một cách tốt nhất. Trên thế giới, đến nay cũng chưa có hướng dẫn thống nhất về theo dõi và điều trị rối loạn nhịp bào thai [12]. Chúng tôi tiến hành báo cáo những ghi nhận ban đầu sau 4 năm triển khai đơn vị tim mạch thai nhi.

  1. Mục tiêu nghiên cứu:

Mô tả phương thức chẩn đoán và điều trị rối loạn nhịp bào thai

  1. Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu:
    1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu hàng loạt ca
    2. Cỡ mẫu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca từ tháng 01/2008 đến 12/2011
    3. 3.      Dân số nghiên cứu:

Dân số mục tiêu: Các bà mẹ mang thai từ 16 tuần đến 40 tuần đến siêu âm tim thai tại Viện Tim.

Dân số nghiên cứu: Các bà mẹ mang thai từ 16 tuần đến 40 tuần đến siêu âm tim thai tại Viện Tim có chẩn đoán rối loạn nhịp tim.

Phương pháp chọn mẫu:

Tiêu chuẩn chọn mẫu:

  • Đồng ý tham gia nghiên cứu
  • Thai phụ trên 18 tuổi tại thời điểm siêu âm
  • Có chẩn đoán rối loạn nhịp trên siêu âm tim thai
  • Tuổi thai từ 16 tuần đến 40 tuần (được xác định nhờ nhớ đúng kinh chót hoặc có siêu âm thai ba tháng đầu)
  • Đơn thai

Tiêu chuẩn lọai trừ:

  • Tim thai không còn hoạt động lúc làm siêu âm
  • Có từ 2 thai trở lên

Cách thu thập số liệu:

  • Thời gian tiến hành: từ tháng 01/2008 đến tháng 01/2011
  • Nhân lực: các BS trong nhóm nghiên cứu siêu âm tim thai của Viện Tim HCM.
  • Phỏng vấn bằng bảng câu hỏi cho tất cả các thai phụ. Bảng câu hỏi được xây dựng bằng những câu hỏi đóng và mở phù hợp để thu thập các thông tin của nghiên cứu. Những thông tin này cùng với kết quả siêu âm, hình ảnh đi kèm được ghi chép và đánh máy lưu lại trên phần mềm tự viết dưới dạng file access và xử lý mỗi tháng .
  • Nguyên liệu: Bảng câu hỏi, máy tính, phần mềm thu thập số liệu, máy in, máy siêu âm 2D và Doppler màu hiệu Philips (Viện tim Tp.HCM)
  1. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
  • Chuyển số liệu file access sang file SPSS và xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.

Sử dụng thống kê mô tả: Tính mối liên quan giữa biến độc lập và biến số phụ thuộc dựa vào các test kiêm định thống kê , Fisher’s Exact Test, Logistic Regression. Sự liên quan giữa hai biến số có ý nghĩa thống kê khi giá trị p<0,05.       

  1. Kết quả: Từ tháng 01/2008 đến 12/2011 có 4332 thai phụ đến siêu âm tim thai tại Viện Tim TP HCM, trong đó có 39 trường  hợp được chẩn đoán rối loạn nhịp, chiếm tỉ lệ 0,9%.

Tuổi mẹ  27 + 5 (tối thiểu 18, tối đa 37)

Tuổi thai 30 + 6 (tối thiểu 18, tối đa 40)

 

 

Bảng 1 phân bố các dạng loạn nhịp chẩn đoán trước sinh

Tên bệnh

Tần số

Tỉ lệ (%)

Ngoại tâm thu nhĩ

17

46

Ngoại tâm thu thất

02

05

Nhịp nhanh kịch phát trên thất

05

14

Nhịp chậm xoang

03

08

Block nhĩ thất II-III

10

27

 

Bảng 2. Diễn tiến thai kì đến lúc sinh

Diễn tiến

Tần số

Tỉ lệ (%)

Chấm dứt thai kì

05

14

Thai lưu

01

03

Mất sau sinh

01

03

Mất theo dõi

05

14

Có bệnh

05

14

Bình thường

20

54

 

*Trong 19 trường hợp ngoại tâm thu nhĩ và ngoại tâm thu thất, trong quá trình theo dõi sau đó đa số tự khỏi, mất theo dõi 3 trường hợp, sau sinh kiểm tra siêu âm tim và đo điện tim có kết quả bình thường.

Bảng 3. Diễn tiến các trường hợp nhịp nhanh kịch phát trên thất

SHS

Tuổi thai

lúc chẩn đoán

Tần số tim

(Lần/phút)

Tỉ lệ tim/ngực

Phù thai

Thuốc

Cân nặng

10800

32

282

0,28

không

Digoxin

CDTK

4707

30

280

0,42

Flecain

THAI LƯU

5441

29

180

0,34

Không

Digoxin

3200

3967

37

220

0,33

Không

Digoxin

3500

5367

38

207

0,29

không

Digoxin

3200

SHS: số hồ sơ; CDTK: chấm dứt thai kì

Bảng 4. Diễn tiến các trường hợp nhịp chậm xoang

SHS

Tuổi thai

lúc chẩn đoán

Tần số tim

(lần/phút)

Tỉ lệ tim/ngực

Phù thai

Cân nặng

(gam)

4359

21

86

0,33

không

2950

10790

31

71

0,23

không

CDTK

10892

37

94

0,31

không

3300

Bảng 5. Diễn tiến các trường hợp block nhĩ thất

SHS

Tuổi thai

lúc chẩn đoán

Tần số tim

(Lần/phút)

Tỉ lệ

tim/ngực

BTBS

kèm

Cân nặng

9652

21

67

0,27

Không

Mất t/d

3948

29

75

0,39

Không

2600

10828

33

53

0,42

Không

3700

3698

32

45

0,49

Không

2100

10782

31

60

0,24

Không

2300

10240

22

46

0,29

Không

2600

5089

23

56

0,41

Không

CDTK

10840

33

108

0,53

Không

Mất t/d

10247

23

55

0,38

KNT

Mất s/s

9817

18

50

0,35

KNT

CDTK

t/d: theo dõi; s/s: sau sinh

  1. Bàn luận

Tuổi thai phụ lúc nghiên cứu của chúng tôi trung bình là 29 tuổi, tương tự như các nghiên cứu khác [1],[2],[5],[8].

Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 30 tuần, nhưng tùy thuộc vào dạng bệnh. Nhìn vào bảng 3,4,5 chúng ta thấy các bệnh rối loạn nhịp nhanh, chủ yếu phát hiện ở 3 tháng cuối thai kì, các bệnh rối loạn nhịp chậm chủ yếu ở 3 tháng giữa thai kì.

Tỉ lệ rối bệnh loạn nhịp/ thai nhi trong nghiên cứu chúng tôi 0,9%, thấp hơn các nghiên cứu khác [13]. Điều này được giải thích bởi các lí do sau:

-         Các rối loạn nhịp như ngoại tâm thu nhĩ hay ngoại tâm thu thất, không ảnh hưởng nhiều đến tiên lượng thai nhi, nên không được quan tâm gửi đi kiểm tra chuyên khoa. Tuy nhiên, theo ghi nhận 1 vài nghiên cứu, nhóm này có tỉ lệ BTBS cao hơn cộng đồng và có một số trường hợp diễn tiến đến rối loạn nhịp nhanh [4].

-         Các trường hợp rối loạn nhịp nhanh hay chậm, có phù thai, đã được chỉ định chấm dứt thai kì ở cơ sở sản khoa.

Trong nghiên cứu chúng tôi, ngoại tâm thu nhĩ gặp nhiều hơn ngoại tâm thu thất và 2 loại rối loạn nhịp này chiếm đa số (51%). Và diễn tiến sau đó tất cả đều thuận lợi (bình thường), chỉ có 3 trường hợp mất theo dõi, không rõ kết quả sau sinh. Cân nặng sau sinh ở nhóm này cũng tương đương với dân số chung là 3307 + 412 gam (tối thiểu 2700, tối đa 4300). Cũng tương tự như các nghiên cứu khác: ngọai tâm thu nhĩ hoặc thất thường lành tính, chúng thường được ghi nhận ở ba tháng cuối của thai kỳ và biến mất trước sinh hoặc những tuần lễ sau đó. Chúng không cần phải được điều trị, nhưng cần theo dõi nhịp tim thai để phát hiện những loạn nhịp nhanh khác [4],[7].

 

Trong 4 năm, chúng tôi gặp 5 trường hợp có chẩn đoán nhịp nhanh kịch phát trên thất, với tần số tim lớn hơn 180 lần/phút (bảng 3). Tất cả đều gặp ở 3 tháng cuối thai kì. Chúng tôi chỉ gặp 1 trường hợp có phù thai, và điều trị không thành công, do sản phụ đến quá trễ. Những trường hợp này thuốc dùng đường uống thường ít hiệu quả, vì thuốc khó khuyếch tán qua bánh nhau bị phù. Có tác giả đề nghị chích thuốc trực tiếp vào thai nhi qua dây rốn hoặc bánh nhau trong những trường hợp phù thai [4]. Bốn trường hợp còn lại của chúng tôi đều có tràn dịch màng bụng. Trước khi quyết định điều trị thuốc, chúng tôi tiến hành làm các bilan kiểm tra tim mạch người mẹ bao gồm: đo huyết áp, đo điện tim, thử máu... . Và 4 thai phụ này được điều trị bằng liều tấn công Digoxin 0,25mg mỗi 8 giờ, sau đó là 0,25mg mỗi 12 giờ trong 3 ngày và điều chỉnh liều Digoxin dựa vào định lượng nồng độ Digoxin/ máu, với ngưỡng điều trị là 1-2 ng/ml. Cả 4 trường hợp sau 1 tuần kiểm tra đều về nhịp xoang. Trường hợp SHS 10800, sau khi về nhịp xoang, thai phụ xin về Bình Thuận theo dõi tiếp, sau 2 tuần, bệnh nhân tự ngưng thuốc và thai nhi bị lên cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất lại. Khám lại ở bệnh viện phụ sản được kết luận là phù nhau thai, có chỉ định chấm dứt thai kì. Đây là trường hợp đáng tiếc.

Một vài tác giả đề nghị theo dõi đơn thuần, không dùng thuốc chống lọan nhịp trong trường hợp chưa tràn dịch, không phù dưới da, bất kể dạng nhịp nhanh nào [7]. Chiến lược điều trị bao gồm: lên kế họach sinh và bắt đầu điều trị sau sinh. Lợi điểm của thái độ này là hạn chế nguy cơ của việc điều trị đối với người mẹ, nhưng sự bất lợi cũng nhân đôi: một mặt liên quan đến sinh non, mặt khác khó theo dõi được “diễn tiến nhịp” lúc sinh do cơn nhịp nhanh hằng định.

Digoxine có thể làm giảm giai đọan trơ của đường dẫn truyền phụ và tạo thuận lợi cho dẫn truyền xuôi dòng trong đường dẫn truyền này, dễ gây ra rung thất, do đó thuốc này không được dùng ở những trẻ có hội chứng WPW. Dù sao cũng cần theo dõi nguy cơ rung nhĩ ở thai nhi có cơn nhịp nhanh với vòng vào lại có đường dẫn truyền phụ (rất hiếm khỏang 1%) [7]. Cần cân nhắc nguy cơ này với “nguy cơ” không điều trị đã đề cập ở phần trên (sinh non, không phân tích “diễn tiến nhịp tim thai” lúc sinh).

Vì lý do này, chúng tôi vẫn khuyên nên dùng digoxine trong trường hợp nhịp nhanh trên thất liên tục hoặc gần như liên tục chưa có dấu hiệu suy thai. Liều khởi đầu 0,75mg/ngày chia 3 lần, giảm 0,5mg/ngày sau 48-72 giờ. Với cách tiếp cận này qua thực tế cho thấy chúng có hiệu quả và không gây độc cho mẹ. Mặc khác nếu không điều trị chúng ta “lo ngại” sẽ dẫn đến rối lọan huyết động, làm việc điều trị khó khăn hơn và làm xấu đi tiên lượng thai nhi.

 

Trong nghiên cứu chúng tôi có 3 trường hợp nhịp châm xoang <100 lần/phút. Hai trường hợp diễn tiến thuận lợi, sau sinh kiểm tra cả 2 bé bình thường. Một trường hợp có nhịp tim khá thấp 71 lần/phút. Kiểm tra sau 2 tuần, thai nhi bị chết lưu. Tham khảo 1 số tài liệu ghi nhận 1 vài trường hợp nhịp chậm xoang thai nhi có liên quan hội chứng QT dài, đôi khi gây những rối loạn nhịp trầm trọng và tử vong thai nhi [4],[9].

 

Trong 10 trường hợp block nhĩ thất của chúng tôi, đa số phát hiện ở 3 tháng giữa thai kì (bảng 5). Có 2 trường hợp có bệnh tim bẩm sinh phức tạp kèm theo. Cả 2 trường hợp này đều bị BTBS phức tạp, xếp vào nhóm hội chứng đồng dạng trái. 1 trường hợp sau khi thảo luận gia đình, bố/ mẹ lựa chọn chấm dứt thai kì. 1 trường hợp tử vong ngay sau sinh. Theo các nghiên cứu khác, những thai nhi bị block nhĩ thất cao độ kèm BTBS, thường nằm trong hội chứng đồng dạng trái, bất tương hợp đôi,... [4],[7],[10]. Block nhĩ thất kèm BTBS tiên lượng nói chung rất xấu. Trong một nghiên cứu trên 21 bào thai, chỉ có 3 trường hợp sống sót [11].

Trong nghiên cứu chúng tôi, có 8 trường hợp block nhĩ thất đơn thuần không có BTBS kèm theo, trong đó có 5 trường hợp xét nghiệm máu mẹ có kết quả dương tính với tự kháng thể anti-SSA và anti-SSB (63%). Trong nghiên cứu của Lin & cs [9], tỉ lệ này là 56%; còn nghiên cứu của Lopes & cs [10] tỉ lệ này là 72%. Trong 5 trường hợp có kết quả xét nghiệm máu mẹ có tự kháng thể dương tính, chỉ có 1 trường hợp SHS 10240 chúng tôi thử dùng Dexamethasone trong 4 tuần, nhưng không thấy hồi phục, chúng tôi giảm liều và ngừng thuốc theo đúng hướng dẫn [9],[10],[12]. Trường hợp này, sau đó được tham vấn tại bệnh viện phụ sản và đi đến quyết định chấm dứt thai kì ở tuần thứ 35, sau đó em bé vẫn còn sống, nên được chuyển qua bệnh viện nhi đồng. Em bé được phẫu thuật đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn thượng tâm mạc, và hiện nay bé được 3 tuổi, phát triển tốt. Các trường hợp còn lại, bệnh nhân đều được gửi đến chúng tôi sau 2 tuần xuất hiện block nhĩ thất, lúc này hệ dẫn truyền đã bị tổn thương không hồi phục, nên chúng tôi quyết định không dùng thuốc Dexamethasone. Tất cả 8 trường hợp đều được sử dụng salbutamol, để làm tăng nhịp tim, theo ghi nhận của chúng tôi, tỉ lệ tăng nhịp lên khoảng 10%, nhưng cần thận trong vì làm người mẹ hồi hộp, mệt do thuốc làm tăng nhịp tim người mẹ. Trong 8 trường hợp này, có 5 trường hợp sống đến lúc sinh, đa số cân nặng lúc sinh đều thấp (bảng 5). Hiện tại chưa có thuốc nào điều trị hiệu quả block nhĩ thất do tự miễn. Những thử nghiệm bằng liệu pháp corticoide dự phòng hay điều trị chưa chứng minh mức độ hiệu quả cũng như sự vô hại của liệu pháp và vẫn còn đang bàn cãi [12], tuy nhiên có 1 vài báo cáo đơn lẻ có vẻ có hiệu quả [6],[7]. Tương tự, điều trị bằng kích nhịp trong bào thai, tuy có vẻ rất thuyết phục, nhưng chỉ đang ở trong giai đọan thử nghiệm [3],[12]. Trong 5 trường hợp theo dõi sau đó và được phẫu thuật đặt máy tạo nhịp, có 3 trường hợp (60%) sống sau 1 năm, thấp hơn so với báo cáo của Lin & cs [9] (95%). Điều này làm chúng ta phải quan tâm hơn trong việc chăm sóc sau sinh và chỉ định đặt máy tạo nhịp kịp thời.

 

 

  1.  Kết luận

Loạn nhịp trong bào thai là bệnh cũng thường gặp với tần suất trong nghiên cứu chúng tôi là khoảng 1% thai nhi. Đa số là ngoại tâm thu nhĩ và ngoại tâm thu thất, với tiên lượng tốt. Tiên lượng nhịp nhanh bào thai nói chung là tốt, trong khi đó block nhĩ thất đựơc chẩn đoán trong bào thai có dự hậu không khả quan khi có bệnh TBS kèm theo, nhưng khá hơn ở bloc nhĩ thất do miễn dịch.

 

Hình 1. Các phương thức chẩn đoán rối loạn nhịp dựa trên siêu âm tim thai

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1              Phạm Nguyễn Vinh, Phạm Việt Thanh, Lê Kim Tuyến, & Đồng nghiệp. (2010). Khảo sát tần suất dị tật tim thai nhi ở các bà mẹ tuổi thai từ 16-28 tuần thời gian từ 5/2007-5/2010. Đề tài nghiên cứu cấp bộ đã nghiệm thu, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

2              Boldt, T., Andersson, S., Eronen, M. (2002), "Outcome of structural heart disease diagnosed in utero". Scand Cardiovasc J, 36(2), 73-79.

3              Cuneo, B. F., Zhao, H., Strasburger, J. F., Ovadia, M., Huhta, J. C., Wakai, R. T. (2007), "Atrial and ventricular rate response and patterns of heart rate acceleration during maternal-fetal terbutaline treatment of fetal complete heart block". Am J Cardiol, 100(4), 661-665.

4              Fouron, J. C. (2004), "Fetal arrhythmias: the Saint-Justine hospital experience". Prenat Diagn, 24(13), 1068-1080.

5              Friedberg, M. K., Silverman, N. H., Moon-Grady, A. J., Tong, E., Nourse, J., Sorenson, B., et al. (2009), "Prenatal detection of congenital heart disease". J Pediatr, 155(1), 26-31, 31 e21.

6              Jaeggi, E. T., Fouron, J. C., Silverman, E. D., Ryan, G., Smallhorn, J., Hornberger, L. K. (2004), "Transplacental fetal treatment improves the outcome of prenatally diagnosed complete atrioventricular block without structural heart disease". Circulation, 110(12), 1542-1548.

7              Kleinman, C. S., Nehgme, R. A. (2004), "Cardiac arrhythmias in the human fetus". Pediatr Cardiol, 25(3), 234-251.

8              Kovavisarach, E., Mitinunwong, C. (2011), "Fetal echocardiography: a 9-year experience in Rajavithi Hospital (1999-2007 AD)". J Med Assoc Thai, 94(3), 265-271.

9              Lin, M. T., Hsieh, F. J., Shyu, M. K., Lee, C. N., Wang, J. K., Wu, M. H. (2004), "Postnatal outcome of fetal bradycardia without significant cardiac abnormalities". Am Heart J, 147(3), 540-544.

10            Lopes, L. M., Tavares, G. M., Damiano, A. P., Lopes, M. A., Aiello, V. D., Schultz, R., et al. (2008), "Perinatal outcome of fetal atrioventricular block: one-hundred-sixteen cases from a single institution". Circulation, 118(12), 1268-1275.

11            Machado, M. V., Tynan, M. J., Curry, P. V., Allan, L. D. (1988), "Fetal complete heart block". Br Heart J, 60(6), 512-515.

12            Maeno, Y., Hirose, A., Kanbe, T., Hori, D. (2009), "Fetal arrhythmia: prenatal diagnosis and perinatal management". J Obstet Gynaecol Res, 35(4), 623-629.

13            Strasburger, J. F., Cheulkar, B., Wichman, H. J. (2007), "Perinatal arrhythmias: diagnosis and management". Clin Perinatol, 34(4), 627-652, vii-viii.